Ngày lâm nghiệp Việt Nam (28/11)

PHO
Ngày Lâm nghiệp Việt Nam hay Ngày truyền thống ngành lâm nghiệp Việt Nam là ngày kỷ niệm của toàn thể cán bộ, công nhân viên chức đang hoạt động và đã từng hoạt động, gắn bó với nghề rừng.

Ngày Lâm nghiệp Việt Nam hay Ngày truyền thống ngành lâm nghiệp Việt Nam là ngày kỷ niệm của toàn thể cán bộ, công nhân viên chức đang hoạt động và đã từng hoạt động, gắn bó với nghề rừng.

Ngày 28 tháng 11 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra pháp lệnh trồng rừng trong cả nước. Trong pháp lệnh này, Hồ Chủ tịch đã khuyên nhân dân cả nước nên trồng rừng. Trồng rừng vừa không tốn kém, lại mang về lợi ích lâu dài cho đất nước. Trẻ em từ 8 tuổi trở lên có thể tham gia trồng rừng.

Ngày 28 tháng 6 năm 1995, theo đề nghị của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), để cổ vũ động viên cán bộ công nhân viên chức hoạt động trong ngành lâm nghiệp trong cả nước, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 380-TTg lấy ngày 28 tháng 11 làm ngày truyền thống ngành lâm nghiệp Việt Nam. Nội dung quyết định 380-TTg của Thủ tướng chỉ đạo:

Hàng năm, bắt đầu từ năm 1995, lấy ngày 28 tháng 11 là "Ngày Lâm nghiệp Việt Nam".

Việc tổ chức "Ngày Lâm nghiệp Việt Nam" phải thực hiện được các nội dung, yêu cầu:

+ Giáo dục ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường trong toàn dân; tình cảm yêu ngành, yêu nghề, yêu quê hương, đất nước trong cán bộ, công nhân viên và lao động lâm nghiệp.

+ Động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển rừng với năng suất, chất lượng cao; sử dụng tài nguyên rừng hợp lý, tiết kiệm.

+ Vận động, tổ chức các ngành, các đoàn thể, các giới có những hoạt động cụ thể, những công trình, những việc có ích để báo công dâng Bác; biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, địa phương và đơn vị tốt.

+ Việc tổ chức "Ngày Lâm nghiệp Việt Nam" hàng năm phải thiết thực, có hiệu quả, không phô trương, lãng phí.

Thực hiện lời kêu gọi của Bác Tỉnh Ủy; Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân; Mặt trận Tổ quốc Tỉnh; Sở Nông nghiêp & phát triển nông thôn Tỉnh Nghệ an hàng năm Tết đến Xuân về đều tổ chức “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác” cấp Tỉnh và 20 Huyện; Thành phố; Thị xã. Phát động các cơ quan, doanh nghiệp, doanh trại quân đội, trường học, nhân dân tham gia. Tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiễn truyền thông, vận động mọi người bảo vệ rừng, phòng chống chặt phá, chữa cháy rừng, phòng và trừ sâu bệnh hại rừng. Thi đua trồng cây phân tán, trồng rừng tập trung đúng quy trình kỹ thuật, thời vụ.

Kết quả mỗi năm trồng hàng triệu cây che bóng, cây phong cảnh trong cơ quan, trường học, doanh trại và công sở. Hàng trăm ha cây ăn quả, cây công nghiệp, hàng chục ngàn ha rừng tập trung. Đến nay diện tích rừng cả Tỉnh đã có 940.500 ha/1.648.994 ha. Trong đó rừng tự nhiên 786.934 ha, rừng trồng tập trung 153.566 ha. Độ che phủ rừng năm 2017 đạt 57%. Rừng phát huy tốt chức năng phòng hộ ngăn chặn gió bão, lũ lụt, hạn chế xói mòn, thoái hóa đất đai, điều tiết nguồn nước. Khai thác rừng trồng đạt >1 triệu m3 gỗ/năm. Chế biến gỗ ghép thanh hàng ngàn m3/năm, gỗ MDF ≈ một trăm ngàn m3/năm. Khai thác nhựa thông ba ngàn tấn/năm. Khai thác song mây, lùng hàng trăm tấn phục vụ các làng nghề đan lát truyền thống. Rừng tạo công ăn việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định cho hàng vạn người, nhất là đồng bào10 huyện huyện miền núi và hàng ngàn thanh niên đến tuổi vào các nhà máy chế biến gỗ. Sản phẩm từ rừng đã đóng góp vào ngân sách Tỉnh Nghệ an mỗi năm >150 triệu USD. Rất nhiều điển hình cá nhân, tập thể bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng giỏi được tôn vinh. Điển hình Công ty 1 TV lâm nông nghiệp Sông Hiếu được Bộ NN&PTNT vinh danh “Doanh nghiệp vì nhà nông”, Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc.

Nhân dịp kỷ niệm ngày Lâm nghiệp Việt nam 28/11 cũng là dịp để Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp và nhân dân tri ân, ghi nhận sự đóng góp phấn đấu của toàn thể cán bộ, công nhân viên chức, anh hùng, chiến sĩ thi đua, lao động sáng tạo, lao động tiên tiến, các kỹ sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã gắn bỏ suốt chiều dài bảo vệ, xây dựng phát triển rừng.

- Kết quả đạt trên đồng nghĩa sự đóng góp của lãnh đạo nhiều cấp, nhiều thể hệ đã xoay chuyển được nhận thức không xem tài nguyên rừng là vô tận, nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng phát triển, sử dụng hợp lý tài nguyên rừng là trách nhiệm là lẽ sống của chính bản thân. Đồng thời đã góp sức chuyển từ sản suất lâm nghiệp truyền thống bao cấp theo kế hoạch sang sản xuất lâm nghiệp xã hội với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Chính vậy đã thúc đẩy sản xuất rừng phát triển đạt được kết quả như ngày nay.

- Kết quả trên cũng bắt nguồn từ biện pháp quản lý và áp dụng tốt các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất như: “Giải pháp quản lý và ổn định quy hoạch ba loại rừng”;“Giải pháp canh tác rừng trên đất dốc bạc màu”; “Giải pháp ứng dụng và chuyển giao giống trồng rừng năng suất cao đến người người sản xuất”; Giải pháp tỉa thưa các loại rừng trồng”;“Giải pháp phòng và chống các loại nấm phá hoại rừng keo, bạch đàn”; “Giải pháp phòng và diệt sâu róm thông bằng chế phẩm sinh học bảo vệ môi trường”; “Giải pháp chống khuy rừng tre, rừng nứa”; “Giải pháp khoanh nuôi phục hồi rừng tư nhiên”; “Giải pháp tu bổ rừng sau khai thác kiệt”; “Giải pháp điều chế lợi dụng bền vững rừng tự nhiên”; “Giải pháp phục hồi các loại lâm sản có giá trị lùng, cánh kiến đỏ, cây bo bo, cây sa mu, thông chóc”;“Giải pháp đưa Kiểm lâm về đia bàn cơ sở”;“ Giải pháp phòng chống cháy rừng bốn tại chỗ”; “Giải pháp phòng chống chặt phá lâm sản và động vật hoang dạ”; “Giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học nguồn gen quý hiếm thực vật, động vật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển sản xuất tại vùng lõi Khu dữ trữ sinh quyển Tây Nghệ an”;“Giải pháp xây dựng và hình thành các sản phẩm du lịch văn hóa lịch sử, tâm linh gắn với chùa chiền, miếu mão”;“Giải pháp sản phẩm du lịch làng nghề truyền thống gắn với các Bản làng đồng bào dân tộc”;“Sản phẩm du lịch danh lam thẳng cảnh gắn với sông nước, gềnh thác, hang động”; “Sản phẩm du lịch mão hiểm gắn với núi non hiểm trở, thác đổ, suối sâu” trong vùng đệm, vùng chuyển tiếp Khu dư trữ. Đây cũng là kết quả của Ủy ban nhân Tinh, các ngành, Sở NN&Phát triển nông thôn đã huy động hiệu quả nhiều nguồn vốn phục vụ sản xuất lâm nghiệp; được Quốc Hội; Kiểm toán; Thanh tra đánh giá cao công tác quản lý, sử dụng vốn đầu tư.

Những kết quả trên lý giải cho điều khác biệt đưa Nghệ an thành Tỉnh có diện tích rừng nói chung và rừng trồng lớn nhất cả nước. Năng suất rừng trồng hiện nay nhiều diện tích đã bằng những nước có nền sản xuất phát triển. Sản lượng gỗ trồng đáp ứng đủ nhu cầu cho chế biến và xuất khẩu trong Tỉnh. Người làm rừng Nghệ an đã biết làm giàu từ diện tích rừng được giao và nhận khoán.

Nghề rừng đang đối mặt một số thách thức cần được thảo gỡ:

1- Sản xuất Lâm nghiệp mang tính đặc thù bị yếu tố thời tiết, thời vụ chi phối, chu kỳ sản xuất dài, thành quả lao động phụ thuộc vào ngoại cảnh, không bền vững. Nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp đổi với các ngành như khai khoảng, giao thông, thủy điện, thủy lợi, phân bổ lại dân cư ngày càng gia tăng ảnh hưởng đến tính bền vững về việc sử dụng, quản lý ba loại rừng. Chế độ, chính sách đầu tư, đại ngộ Nhà nước chưa cân nhắc đến tính cá biệt vừa kiềm hãm, ảnh hưởng tới tăng trưởng, tâm tư của người làm rừng.

2- Biến đổi khí hậu hệ quả của sự nóng lên toàn cầu do lãm dụng nhiên liệu hóa thạch, giảm các bể chửa các bon. Hiện tượng khí hậu cực đoan như nước biển dâng cao, hạn hán, đất đai khô cằn, cháy rừng, gió bão, lũ quét, lốc tố, sạt lở, thiếu hụt nước ngọt, suy giảm đa dạng sinh học và gia tăng bệnh tật. Vì thế cần được lượng hóa, tính toán chặt chẽ, loại bỏ yếu tố cảm tính khi quyết định chuyển đổi các nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp là rất quan trọng.

3- Nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và suy giảm chất lượng rừng. Theo dõi kết quả và đánh giá các nhân tố điều tra trong hệ thống ô định vị đặt tại rừng tự nhiên. Các trị số bình quân về Trữ lượng gỗ giàu, trung bình m3/ha. Số lượng loài tầng cao trên đơn vị diện tích. Cẩu trúc tầng thứ, tổ thành, tuổi, mật độ thay đổi. Diễn thế từ Rừng gỗ→Rừng gỗ+Tre nứa→Cây bụi→Cỏ. Sự thay đổi này báo động là tài nguyên đang cạn kiệt, rừng mất dần khả năng phòng hộ hữu hiệu và cung cấp lâu dài, rừng đan bị lãm dụng vượt ngưỡng tăng trưởng.

4- Nguy cơ tụt hậu: Cuộc cách mạng sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu công nghệ thông tin, công nghệ sinh học với sự đột phá của cộng nghệ số(Cuộc cách mạng 4.0) phát triển và được ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất. Đội ngũ khoa học kỹ thuật trẻ ngành lâm nghiệp Tỉnh nhà cần có bước đột phá nhằm gia tăng hàm lượng khoa học vào các công trình sản xuất lâm nghiệp để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả đầu tư nếu không muốn bị bỏ xa và lạc hậu.

Về nhiệm vụ sắp tới xin được các cấp quan tâm một số nội dung:

1- Nghệ an nằm ở phía đông dãy trường sơn nhiều núi cao hiểm trở, bề ngang hẹp, dốc. Khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng, hạn hán, mưa lũ, ngập ủng. Vì vậy Tỉnh bố trí đất lâm nghiệp hiện tại 1.187.292 ha là phù hợp. Trong đó: Rừng đặc dụng 172.403 ha. Rừng sản xuất 651.745 ha. Rừng phòng hộ 363.144 ha. Nếu ổn định được diện tích phân bổ trên thì các vành đai rừng biên giới, đầu nguồn lưu vực sông cả, sông con, sông hiếu, sông giăng thuộc cấp phòng hộ rất xung yếu. Vành đai rừng nằm hai bên sông suối, hồ đập thuộc cấp xung yếu. Vành đai rừng phân bổ gần làng mạc, đồng ruộng, nhà máy, trường học thuộc Cấp ít xung yếu. Rừng tự nhiên được bảo vệ tốt, rừng trồng khai thác đúng luân kỳ thì cơ sở tính toán độ che phủ toàn Tỉnh từ 57 – 59% là hoàn toàn đảm bảo được an ninh môi trường, an ninh quốc phòng và phát triển kính tế xã hội Tỉnh nhà.

2- Cần quy hoạch để hình thành hai vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung chuyên canh chất lượng cao, được cấp chứng chỉ rừng bền vững(FSC). Quy mô 185.000 ha. Gồm vùng Phủ quỳ diện tích khoảng 100.000 ha(Các Huyện Quế phong; Quỳ châu; Quỳ hợp; Nghĩa đàn). Vùng Tây nam Tỉnh quy mô 85.000 ha(Các Huyện Con cuông; Anh sơn; Tân kỳ; Thanh chương). Hai vùng trồng rừng tập trung này phải được đầu tư hạ tầng đồng bộ bao gồm cơ sở nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô. Xây dựng hệ thống đường vận xuất, vận chuyển bền vững, ổn định. Được trồng bởi các loài giống chất lượng chỉ định, gỗ sau khai thác đáp ứng chủng loại, kích thước gỗ ghép thanh xuất khẩu và tiêu dùng, ván MDF cao cấp. Quy mô này mỗi năm có thể khai thác cung cấp cho 4 nhà máy trên địa bàn ≈ 2 triệu m3/năm. Đây cũng là giải pháp hạn chế băm dăm.

3- Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp đồng bộ đáp ứng sản xuất:

Chính sách phát triển đường vận xuất, vận chuyển phục vụ sản xuất lâm nghiệp. Chính sách tiếp cận nguồn vốn vay dài hạn lại suất hợp lý phục vụ xây dựng hạ tầng và trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Chính sách đại ngộ cho lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách. Nếu làm tốt được những nội nêu trên vừa giảm được chi phí sản xuất, vừa tăng năng suất lao động, gia tăng chất lượng, cơ sở để giảm giá thành sản phẩm đáp ứng thì trường tiêu thụ tại thị trường khó tính EU, Nhật, Mỹ. Đây cũng bước đột phá, là giải pháp hưu hiệu nâng cao giá trị tăng trưởng của rừng nói chung.

4- Đi đôi với việc tái cơ cẩu lại mô hình sản xuất lâm nghiệp, ngành cần nhanh chóng lựa chọn, tuyển dụng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, năng lực, trách nhiệm đào tạo nâng cao năng lực quản lý, năng lực chuyên môn, năng lực chỉ đạo sản xuất nhằm tạo bước chuyển biến mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển rừng.

Trên đây là một số ý kiến nhận xét, đánh giá, kiến nghị một lần nữa tôi xin kính chúc các quý đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc hội nghị thành công.

Kỹ sư: Hoàng Văn Long - HỘI KHOA HỌC KỸ THUẬT LÂM NGHIỆP NGHỆ AN

Đ.Đ.C

lên đầu trang