• Miền Tây Nghệ An cũng là nơi hội tụ, gặp gỡ của nhiều luồng động thực vật di cư từ miền Bắc vào, miền Nam ra và từ miền Tây của dãy Trường Sơn sang, là vùng núi non trùng điệp, giàu có về tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan. Với các giá trị bảo tồn ĐDSH gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi trong phát triển KTXHbền vững, ngày 18 tháng 9 năm 2007, miền Tây Nghệ An đã chính thức được Ủy ban UNESCO công nhận là khu Dự trữ sinh quyển (KDTSQ)thế giớitrên phạm vi 9 huyện (Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Tân Kỳ, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong) với tổng diện tích 1,3 triệu ha.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài nguyên ĐDSH của Việt Nam nói chung và miền Tây Nghệ An nói riêng đã và đang bị suy giảm. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng dưới sức ép ngày càng tăng từ các hoạt động của con người.
1. Đa dạng sinh học ở miền Tây Nghệ An
Giá trị nổi bật của miền Tây Nghệ An nói chung là có tính ĐDSH rất cao đại diện cho hầu hết các kiểu rừng của rừng mưa nhiệt đới. Tính ĐDSH tập trung chủ yếu ở các khu rừng đặc dụng: Vườn quốc gia Pù Mát, các khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt.
Kết quả điều tra, các chuyên gia kết luận đặc điểm ĐDSH miền Tây Nghệ An như sau:
Về kiểu hệ sinh thái: Miền Tây Nghệ An là nơi có nhiều sinh cảnh sống đa dạng bao gồm: núi, đất ngập nước, suối và sinh cảnh khác. Đây là khu vực còn lại của miền Bắc có một diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào. Ở Miền Tây Nghệ An có đại diện của hầu hết các cảnh quan nhiệt đới, từ rừng già nguyên sinh đến các trảng cỏ, cây bụi. Đa dạng hệ sinh thái tạo nhiều cảnh quan thiên nhiên, là điểm thu hút khách du lịch như: Thác khe Kèm, thác Sao Va, Hang Bua, hang thẩm Ồm, … tạo lợi thế địa phương trong lĩnh vực thủy điện như Bản Vẽ, Hủa Na, khe Bố với công suất lớn.
Xếp theo hệ thống phân loại của UNESCO năm 1973 thì Vườn quốc gia Pù Mát tiêu biểu cho khu vực miền Tây có đầy đủ 4/5 lớp quần hệ, đó là lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần hệ cây bụi và lớp quần hệ cây thảo.
Về thực vật có gần 2.500 loài thực vật bậc cao, trong đó có 69 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam có nguy cơ bị tiêu diệt, chiếm 2,77% tổng số loài của khu hệ;
Về động vật khu hệ có hơn 1.000 loài động vật, với 132 loài thú, 324 loài chim cùng với nhiều loài lưỡng cư, bò sát, cá và côn trùng khác. Trong đó có 61 loài động vật quý hiếm nằm trong danh lục IUCN (2008), tiêu biểu là các loài Voi (Elephas maximus), Hổ (Panthera tigris), Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina), Mang trường sơn (Muntiacus truongsonensis);
Tính mới của khu hệ: Miền Tây Nghệ An là nơi giao thoa của hệ thống động thực vật Nam và Bắc Trường Sơn. Nơi đây trong những cánh rừng nguyên sinh ở độ cao từ 1 ngàn đến 2 ngàn mét vẫn đang còn nhiều loài động thực vật đang chờ các nhà khoa học khám phá và phát hiện. Đây là nơi từng phát hiện các loài thú mới cho thế giới hồi cuối thập niên 80, 90 thế kỷ trước, như: Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), Vượn đen má trắng (Nomascus (Hylobates) leucogenys), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Mang trường sơn (Muntiacus truongsonensis), Thỏ vằn trường sơn (Nesolagus sp.).
Yếu tố đặc hữucủa khu hệ chim và thú ở khu vực cũng cao, có tới 12 loài (cho Việt Nam và Lào) trong số đó có những loài đặc trưng như Voọc xám (Semnopithecus phayrei), Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Mang Trường sơn (Muntiacus truongsonensis), Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Vượn Má vàng (Hylobates leucogenys), Thỏ vằn (Nesolagus sp.), Cầy vằn (Chrotogale (Hemigalus owstoni), Trĩ sao (Rheinardia ocellata), Khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui).
ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam-1995).
2. Thực trạng công tác bảo tồn ĐDSH
Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho tính ĐDSH miền Tây đang có chiều hướng suy giảm. Các hoạt động phát triển kinh tế xã hội đã ảnh hưởng làm thay đổi thế cân bằng tự nhiên, suy giảm tính ĐDSH, ảnh hưởng chất lượng và suy giảm trữ lượng tài nguyên. Cụ thể:
Các hoạt khai thác gỗ, khai thác tre nứa bất hợp pháp, ngoài ra tre nứa còn dùng cho sản xuất giấy. Đánh bắt cá vẫn xảy ra, thậm chí có cả hiện tượng đánh cá bằng mìn, điện, thả chất độc trên sông suối làm ô nhiễm, phá huỷ môi trường sống bằng hình thức huỷ diệt trong các khu rừng đặc dụng. Hiện tượng phát nương, làm rẫy, dẫn đến cháy rừng trong những mùa khô nóng đã tác động đến rừng, đe doạ làm mất nơi cư trú của nhiều loài. Các hoạt động khai thác lâm sản như: lấy trầm, lấy măng, cây thuốc, mật ong, làm ảnh hưởng lớn tới rừng, tác động đến vùng
sống của các loài động vật. Các hoạt động này đã dẫn đến tỷ lệ rừng bị thay đổi và suy thoái môi trường sống gia tăng. Tình trạng săn bắn, đánh bẫy các loài động vật, gây suy giảm số lượng cá thể một số loài, đe doạ tuyệt chủng một số loài khác là mối nguy cơ nghiêm trọng nhất đối với tài nguyên ĐDSH của Nghệ An.
Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam nói chung và UBND tỉnh Nghệ An nói riêng đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của khu vực. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra sự cần thiết phải giải quyết mối mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.
Thực tế công tác bảo tồn đa dạng sinh học vẫn còn nhiều tồn tại.
Tồn tại trongbảo tồn ĐDSH miền Tây Nghệ An:
- Thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết: Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 08 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến hành lang ĐDSH nối liền khu BTTN Xuân Liên (Thanh Hóa) – khu BTTN Pù Hoạt – khu BTTN Pù Huống – VQG Pù Mát và VQG Vũ Quang (Hà Tĩnh) thành một dải. Tuy nhiên, trên thực tế hành lang ĐDSH chưa được quy hoạch phân định cụ thể, hệ thống các khu bảo tồncó tính liên kết yếu nên hạn chế đến các hoạt động bảo tồn trên phạm vi toàn vùng;
- Ranh giới các khu rừng đặc dụng phần lớn chưa được phân định rõ ràng trên thực địa, các hoạt động xâm lấn, vi phạm trong các khu bảo tồn còn xẩy ra.
- Nguồn ngân sách cho bảo tồn còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước, các khu bảo tồn thuộc địa phương quản lý có nguồn ngân sách rất hạn chế cho các hoạt động bảo tồn, chưa có chính sách cụ thể để xã hội hóa công tác bảo tồn.
- Một số chính sách về khu bảo tồn còn thiếu, như chính sách đầu tư, quản lý vùng đệm.
- Năng lực cán bộ hạn chế, nhất là cán bộ nghiên cứu khoa học về bảo tồn, các hướng dẫn viên phục vụ giáo dục môi trường.
3. Bảo tồn với phát triển bền vững ở khu DTSQ miền Tây Nghệ An
Khu Dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An được UNESCO chính thức công nhận ngày 18/9/2007, là khu DTSQ trên cạn lớn nhất Việt Nam với diện tích 1.303.285 ha, là hành lang xanh kết nối 3 khu rừng đặc dụng tạonên sự liên tục về môi trường và sinh cảnh. Để quản lý khu DTSQ miền Tây Nghệ An, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành Quyết định số 5232/QĐ-UBND ngày 05/11/2013 thành lập Ban quản lý KDTSQ miền Tây Nghệ An.
Thực hiện mục đích bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn lợi thiên nhiên, khu DTSQ miền Tây Nghệ An được phân thành 3 phân khu chức năng (1) như sau:
- Vùng lõi: Diện tích 241.985 ha, bao gồm: Vườn Quốc gia Pù Mát và 2 Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt thuộc các huyện: Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp.
- Vùng đệm: Diện tích 503.270 ha, dân số 200.926 người, thuộc các huyện: Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Anh Sơn, Thanh Chương.
- Vùng chuyển tiếp: Diện tích khoảng 558.030 ha, dân số 272.896 người, thuộc địa giới hành chính các huyện: Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Anh Sơn, Thanh Chương, Tân Kỳ.
Việc phân chia khu DTSQ thành 3 khu chức năng là cơ sở để thực hiện các chính sách quản lý, biện pháp tác động khác nhau nhưng đồng thời có sự hỗ trợ nhau giữa các phân khu, hay đúng hơn là “điều phối liên ngành” trong thực hiện các chức năng chung khu DTSQ:
- Chức năng bảo tồn: Đóng góp vào việc bảo tồn đa dạng cảnh quan, hệ sinh thái, loài và di truyền;
- Chức năng phát triển: Thúc đẩy phát triển kinh tế trên cơ sở bảo đảm phát triển bền vững môi trường và thực nghiệm bảo tồn nghiên cứu khoa học;
- Chức năng trợ giúp: Nghiên cứu, giám sát, đào tạo và giáo dục cộng đồng về bảo tồn và phát triển bền vững ở phạm vi địa phương, quốc gia và quốc tế.
Ban quản lý khu DTSQ là đầu mối điều phối, thống nhất phối hợp các hoạt động chung của Khu DTSQ với những mục tiêu đã được xác định theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Từ khi thành lập, BQL khu DTSQ đã thực hiện nhiều hoạt động chuyên môn với chức năng tham mưu UBND tỉnh trong quản lý khu DTSQ. Cụ thể:
- Xây dựng và đồng bộ cơ sở dữ liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của 9 huyện và 3 vùng lõi phục vụ quản lý, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên;
- Để xác định hướng đi thích hợp, đúng quỹ đạo phát triển bền vững dựa trên lợi thế, tiềm năng của khu DTSQ, triển khai xây dựng dự án “Bảo tồn và phát triển khu DTSQ miền Tây Nghệ An“ là dự án trọng điểm quốc gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2016 – 2020, theo Quyết định 631/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó hợp phần Bảo tồn ĐDSH là một hợp phần chính của dự án.
- Nhận thấy việc khôi phục bảo vệ các hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng di truyền để bảo tồn đa dạng sinh học là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. UBND tỉnh Nghệ An đã quyết định phê duyệt “Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh thực hiện từ năm 2014 đến năm 2020” chủ yếu thực hiện trên địa bàn miền Tây;
- BQL tham mưu, phối hợp các cơ quan chức năng chuyên môn: sưu tầm, biên soạn tài liệu và tổ chức tuyên truyền công tác bảo tồn ĐDSH và thu hút đầu tư phát triển khu DTSQ; áp dụng công nghệ mới, ứng dụng tiến bộ KHCN vào thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh; Áp dụng quản lý rừng bền vững (Chứng chỉ rừng) cho cả rừng tự nhiên và rừng sản xuất, quy hoạch vùng nguyên liệu gỗ lớn; Ứng dụng công nghệ viễn thám vào việc quản lý và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; khuyến khích xây dựng mô hình trình diễn, phổ cập, nhân rộng các
ứng dụng khoa học, công nghệ về phát triển rừng, bảo vệ rừng, phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường bền vững....
Qua đó Khu DTSQ hướng đến bảo tồn trong thế mở, phát triển kinh tế, xã hội con người ở thế cân bằng với thiên theo quan điểm phát triển bền vững hay “Bảo tồn để phát triển và Phát triển để bảo tồn” (2)
Kết luận
Ngày nay bảo tồn ĐDSH đang được quan tâm không chỉ ở phạm vi riêng lẽ của từng quốc gia mà là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài nguyên ĐDSH gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như hạn chế các tác động của sự thay đổi khí hậu.
Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững đều hướng tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người về tất cả các mặt. Tuy nhiên mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển trong mô hình bảo tồn truyền thống là không thể giải quyết được.
Đứng trước tình hình đó, bảo tồn trong tư thế mở, nhằm chia sẻ lợi ích, hướng tới sự hài hòa, thân thiện giữa con người và thiên nhiên là xu thế chung của thế giới. Trong đó KDTSQ được kỳ vọng là mô hình phát triển bền vững, đồng thời là công cụ phục vụ bảo tồn ĐDSH của địa phương./.
Ngô Trí Đạt - Phòng KHTC
Tác giả: Vi Lưu Bình, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT